Khi đối trước mọi biến động của ngoại cảnh, tâm Ngài vẫn bất động cho nên chúng ta gọi Ngài là Tịch. Chữ "Mặc" mang nghĩa nội tâm. Trong đêm thành Đạo của Đức Phật, khi đó có đủ các loại ma: ma sân, ma tham, ma danh vọng, ma ái… xuất hiện. Gọi là ma không phải là ma bên ngoài mà chính là trạng thái tâm của người trước khi thành đạo. Nhưng Đức Phật không để các trạng thái tâm như tham-sân-giận-ghét-ái dục-vô minh chi phối. Kinh Mười hai nhân duyên có vẽ hình ảnh một bà già mù còng lưng dẫn dắt chúng ta, không phải một kiếp mà hàng bao nhiêu kiếp. Bà già đấy trong Kinh gọi là Vô minh. Bà già ấy đã mù nhưng lôi chúng ta hết kiếp này sang kiếp khác, quanh quẩn trong sáu đạo luân hồi không ra khỏi được. Khoen Vô minh trong Bảng Luân hồi Lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca ban trải khắp cứu độ muôn loài, trí tuệ của Ngài rực sáng để bình lặng trước cuộc đời. Như vậy danh hiệu của Đức Phật Thích Ca gồm cả hai khía cạnh Từ bi và Trí tuệ. Đức Phật nào cũng sẽ có đủ hai phần như vậy. Cả cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng về Từ bi và Trí tuệ.
Xá Lợi của Bích Chi Phật Lợi của Tôn giả Kiều Trần Như ( một trong năm vị Đại Tỳ kheo - chứng quả đầu tiên) Xá Lợi của Tôn giả A Na Luật (Thiên Nhãn đệ nhất) Xá Lợi của Tôn giả Phú Lâu Na (Thuyết pháp đệ nhất)
Là Phật tử khi thực hành quy y Phật, bạn cần hiểu Đức Phật Thích Ca là bậc Thầy gốc của chúng ta. Ngài là bậc giác ngộ thấu rõ chân lý của vạn pháp, thị hiện trong hình tướng của loài người, đi vào cõi Sa bà đề khai sáng Ánh đạo vàng cho nhân gian. Khi bạn niệm câu: "Nam mô bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật", chữ "bản" nghĩa là "gốc", "sư" là "thầy", "Bản sư" chính là "Bậc Thầy gốc". Đức Phật Thích Ca là bậc Thầy gốc của tất cả chúng sinh ở cõi Sa bà. Chữ "Thích Ca Mâu Ni" là tiếng Ấn Độ, khi dịch nghĩa sang tiếng Trung Quốc, tên Ngài có hai nghĩa là Năng nhân và Tịch mặc. Năng nhân "Nhân" ở đây là nhân đức, nhân từ, và "năng" là năng lực, sức mạnh. "Năng nhân" có nghĩa là "sức mạnh của lòng từ bi". Sức mạnh này đã trở thành một năng lực vĩ đại để Đức Phật có thể cứu khổ cho chúng sinh một cách vô ngã. Đối với Đức Phật Thích Ca, tình thương mà Ngài dành cho chúng sinh luôn bình đẳng, và trở thành sức mạnh có thể chuyển hóa được khổ đau cho chúng sinh, giúp chúng sinh đạt được giác ngộ. Trong Kinh kể rằng, một đời trước của Đức Phật Thích Ca, Ngài từng là một vị Thái tử.
Vì làm như vậy là trái nghịch hoàn toàn. Đức Phật tối cao là người đứng đầu khắp cõi chúng sanh, hơn nữa việc thờ cúng cũng khá ngược. Bởi khi thờ Phật thường dâng hoa, nước, quả, đồ ăn chay, còn đối với gia tiên khi làm mâm cơm cúng đa số đều là đồ ăn mặn. Không thờ Phật chung với thần thánh. Theo lẽ thường thì thần thánh vẫn còn trong kiếp luôn hồi. Việc thờ Phật, Bồ Tát chung với thần thánh là phạm đại kỵ cần kiêng và tránh. Mọi đồ dùng thờ cúng Phật phải luôn sạch sẽ và riêng biệt. Không dùng dĩa trái cây, bình hoa thờ Phật sang thờ thần thánh hoặc ngược lại. Khi thỉnh Phật từ cửa hàng về nếu bạn chọn tự an vị Phật thì đưa thằng về nhà và niệm kinh chú Phật. Còn muốn nhờ sư tăng khai quang và chú nguyện thì đưa lên chùa. Thông thường các sư tăng sẽ chú nguyện và giúp gia chủ chọn ngày giờ tốt để thỉnh Phật về nhà. Để an vị Phật thông thường hay chọn các ngày mùng 1, 15 hàng tháng hoặc có thể chọn ngày vía Phật, Bồ Tát… Tùy theo việc bạn thỉnh Phật nào mà lựa chọn ngày vía cho chính xác.
Mâu Ni (Muni) nghĩa là gì? Từ "thanh tịnh, bình đẳng, giác" trong tựa đề kinh này, Mâu Ni là tịch tĩnh. Mâu Ni là tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác chứ không mê; đấy là ý nghĩa của Mâu Ni. Vào thời Ấn Độ cổ hơn 2500 năm trước đây, ở vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavattsu), một vị Hoàng tử đã giáng sinh, được đặt tên là Tất Đạt Đa, họ là Kiều Đạt Ma. Khi Hoàng tử Tất Đạt Đa lớn lên, ngài cảm động sâu sắc với nỗi khổ đau và sự vô thường của đời người. Vì thế, ngài xuất gia tu hành. Sau này, khi Hoàng tử Tất Đạt Đa khai ngộ, vì muốn chúng sinh được giải thoát khỏi bể khổ, ngài đã đi khắp nơi truyền rộng Phật Pháp. Người đời tôn ngài là "Phật". Thế nhân cũng tôn ngài là "Thích Ca Mâu Ni". Vậy tên của ngài có ý nghĩa là gì và lời chỉ dạy của ngài trước khi nhập niết bàn về cúng dường (cung dưỡng, cung cấp và nuôi dưỡng) chân chính như thế nào? Nguồn gốc và ý nghĩa của tên "Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa" Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni) có tên gốc (tên thế tục) là Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa (Gotama Siddhāttha).
Làm Theo Lời Phật Dạy Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi ta khóc, ta không có dép để mang thì ta lại phát hiện có người không có chân.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở xứ trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước Nêpal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích Ca, là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này. Bà Hoàng hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua chúa đã lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân. Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có một vía tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của bà mà chui vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe.
Ninh Tâm Vương, 2024